Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại hội II của Đảng - Những dấu ấn mang tầm thời đại

 Đại hội lần thứ II của Đảng. (Ảnh: T.L)

1. Dấu ấn trong công tác chuẩn bị Đại hội

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I họp ở Ma Cao (tháng 3-1935) đến Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951) cách nhau 15 năm 8 tháng, là khoảng thời gian dài nhất so với thời gian giữa các kỳ Đại hội. Trong thời gian đó, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều chuyển quan trọng, đặt ra những yêu cầu cấp bách đòi hỏi Đảng phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn phù hợp với thời cuộc; phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội; kịp thời hoạch định những chủ trương để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là, Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách mạng với tư cách là một Đảng cầm quyền.

Để làm tròn nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang đó, Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có một quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, chặt chẽ, để lại những dấu ấn và bài học quý. Ngay sau chiến thắng Việt Bắc, Hội nghị Trung ương mở rộng họp từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948 đã đặt vấn đề chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ II. Tiếp đó, Hội nghị cán bộ lần thứ 6 (tháng 1-1949) nêu rõ việc chuẩn bị Đại hội lần thứ II của Đảng với hai nội dung quan trọng: “một là, Trung ương chuẩn bị đề án cho kịp thời, có đề án riêng cho các chi bộ; hai là, các địa phương phải gửi báo cáo tình hình mọi mặt về Trung ương trước tháng 3-1949”(1). Trong Báo cáo của Hội nghị, Tổng Bí thư Trường Chinh khẳng định công việc chuẩn bị Đại hội II của Đảng là một trong những nhiêm vụ lớn và không thể chậm trễ. Đại hội có mục đích: “Sửa đổi chính cương, Điều lệ Đảng. Đúc kinh nghiệm toàn quốc về mọi mặt quân sự, dân vận, Đảng và định rõ nhiệm vụ của Đảng ta mọi mặt trong giai đoạn kháng chiến hiện tại”(2).

Bế mạc Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ việc trước hết phải làm là “chỉnh đốn nội bộ Đảng. Phải nêu ra những việc chính, nắm lấy nó mà làm. Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng”(3).

Dấu ấn đặc biệt trong quá trình chuẩn bị Đại hội II là Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đại hội trù bị với những ý kiến chỉ đạo ngắn gọn, súc tích không chỉ phản ánh tư tưởng chủ đạo và nội dung chính của Đại hội là “…Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng lao động Việt Nam”(4), mà còn chứng tỏ Người rất quan tâm đến thành công của Đại hội thông qua gợi ý cách thảo luận. Người chỉ dẫn và nhấn mạnh “nghiên cứu thật sâu, thảo luận thật kỹ những vấn đề chính; hiểu rõ nội dung sự phát triển và sự quan hệ giữa vấn đề này với vấn dề khác; nên đưa các vấn đề vào hiện tại và tương lai hơn quá khứ; chỉ nên bàn kỹ, xét kỹ tư tưởng, chính sách, phương châm và tổ chức”(5).

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác chuẩn bị Đại hội II được tiến hành khoa học, chu đáo, cẩn trọng, thể hiện tầm quan trọng đặc biệt của Đại hội II, một đại hội phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề cấp bách. Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh cho thấy dấu ấn quan trọng về mặt phương pháp luận, đó là tập trung vào nhiệm vụ chính, nhiệm vụ trọng tâm, làm thật sâu, thật kỹ, chú ý các mối quan hệ và sự phát triển từ hiện tại tới tương lai. Người dặn “Đại hội ta cũng phải quân sự hóa”(6) là chỉ rõ mọi vấn đề phải xuất phát từ thực tiễn, từ hoàn cảnh cụ thể.

2. Dấu ấn trong các văn kiện trình bày tại Đại hội, thể hiện tập trung cho nhiệm vụ đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam

Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951, với sự tham dự của 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên. Để đẩy mạnh kháng chiến, Đại hội đã đề ra 12 chính sách cơ bản để động viên, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc quyết tâm giành thắng lợi. Đặc biệt, Đại hội nhất trí thông qua “Chính cương”, “Điều lệ” của Đảng và Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày Báo cáo chính trị nêu rõ những biến đổi của đất nước và thế giới, những khó khăn của Đảng và Chính phủ, nhất là những ưu, khuyết điểm của Đảng. Người đặc biệt nhấn mạnh đến công tác xây dựng Đảng, cho rằng: “Đảng ta thành tích khá nhiều, nhưng khuyết điểm cũng không ít. Chúng ta cần phải thật thà tự phê bình để sửa chữa. Phải cố sửa chữa để tiến bộ”(7). Người chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của cán bộ, đảng viên, từ Trung ương đến địa phương như: “Ở các cơ quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần”(8). Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng đã chỉ rõ nguyên nhân của những yếu kém: “Trong Đảng có những bệnh ấy và bệnh khác. Trung ương cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Vì Trung ương chưa chú trọng việc kiểm tra. Sự huấn luyện về chủ nghĩa tuy có, nhưng chưa được khắp, chưa được đủ. Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa thành nền nếp thường xuyên”(9). Chỉ đạo tại Đại hội II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh những vấn đề rất quan trọng: Xác định những biến chuyển của tình hình thế giới; các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam; sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm của Đảng; khẳng định vai trò, bản chất của Đảng; các nhân tố tạo nên sức mạnh nội lực của dân tộc.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II,
tháng 2/1951.(Ảnh tư liệu BTLSQG)

 Về công tác lý luận của Đảng, tại Đại hội có nhiều ý kiến đề cập tới chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày rõ phương pháp vận dụng sáng tạo và áp dụng học thuyết này. Người nêu rõ: “Tôi thấy các đồng chí lên phát biểu ý kiến nhắc đến chủ nghĩa Mác luôn. Cái đó rất đúng. Nhưng mà nhắc đến chủ nghĩa Mác, phải áp dụng chủ nghĩa Mác cho đúng. Cốt yếu là ở đấy. Chủ nghĩa Mác là gì? Là cộng sản. Mà làm cộng sản thì ai lãnh đạo? Giai cấp công nhân…Nói chung toàn thế giới cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhưng quyền lãnh đạo không phải cứ nói “ta lãnh đạo đây, ta lãnh đạo đây” mà phải tranh đấu, huấn luyện, tổ chức mà tranh lấy”(10).

Về tổ chức Đảng Cộng sản ở mỗi nước, theo đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào thời điểm đó trên cơ sở của Đảng Cộng sản Đông Dương nên tổ chức ở mỗi nước một Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình. Tại Đại hội, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đại diện nhân dân Lào phát biểu đáp từ đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khẳng định những thành công của Đảng Cộng sản Đông Dương trong lãnh đạo cách mạng Đông Dương trong 21 năm qua, đã làm tròn nhiệm vụ do ba dân tộc giao phó, do tình hình thay đổi nên “…đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tách Đảng Cộng sản Đông Dương ra Đảng Lao động Việt Nam và ở Miên, Lào có hai tổ chức khác là rất đúng và thích hợp với tình hình mới; ba dân tộc có ba quốc gia rõ rệt…Chúng tôi, người cộng sản Lào tán thành đề nghị đó không chút thắc mắc”(11). Đại biểu Campuchia phát biểu: “Tôi nhận rằng từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Đông Dương rất có thành tích trong việc lãnh đạo cách mạng Việt, Miên, Lào. Nhưng nay cách mạng ba nước có ba đặc tính riêng khác nhau, không thể có một Đảng bao trùm được mà Miên, Lào sẽ lập hai Đảng khác nhau. Vì thế tôi rất hoan nghênh đề nghị sáng suốt của Báo cáo chính trị”(12).

Trước những ý kiến, nguyện vọng của hai nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu thị niềm vui về quyết định của Đại hội xây dựng ba Đảng Cộng sản ở ba nước. Người bày tỏ: “Sau khi nghe các đồng chí ở Miên, Lào phát biểu ý kiến, chắc Đại hội cũng như tôi, chúng ta rất cảm động…Chúng ta như con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà cách mạng. Bây giờ con cái đã lớn khôn rồi, phải chia nhà, chia cửa ở riêng. Con trai có vợ, con gái có chồng. Sau này con đẻ cháu đông đúc; từ gia đình nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ gia đình lớn tiến lên họ hàng, họ hàng càng to, càng mạnh, đông người nhiều việc, nhất định chóng thành công”(13).

Về tại sao chúng ta lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam: “Là cốt để củng cố thêm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, củng cố công nông liên minh, gắn bó giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, thống nhất các lực lượng dân tộc và dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng”(14) và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam chẳng những lợi cho việc đoàn kết toàn dân đánh bại quân xâm lược, mà còn lợi cho việc thống nhất mặt trận phản đế của ba dân tộc Việt, Miên, Lào chống đế quốc Pháp - Mỹ, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(15). Đây là sáng tạo đặc biệt của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất giai cấp công nhân của Đảng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta.

Các văn kiện được trình bày tại Đại hội đều thể hiện dấu ấn, tư tưởng và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh đọc khẳng định Hồ Chủ tịch, Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng. Báo cáo nêu lên nhiều phẩm chất cao quý, đức độ, tài năng, bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là biểu tượng sáng ngời của đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nêu gương sáng về tinh thần kiên quyết đấu tranh, lòng trung thành rất mực với Đảng, với giai cấp và dân tộc. Đặc biệt, báo cáo nhấn mạnh bản lĩnh, trí tuệ và tư duy đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người dạy chúng ta mỗi khi tình hình đổi mới, điều kiện mới của cuộc vận động cách mạng đã đẻ ra, thì phải lập tức xét lại chủ trương, chính sách và phương pháp vận động, căn cứ vào tình hình mới mà định phương châm chiến lược và chiến thuật, không nên bám lấy những khuôn khổ cũ kỹ”(16).

Những chỉ đạo đó của Người, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đại hội khẳng định, Đảng tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại.

----------

(1)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.24.

(2)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập10, tr.149.

 (3)Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập.6, Nxb CTQG, H, 2011, tr 15.

(4)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr 15.

(5)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.14.

(6)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.14.

(7)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 32.

(8)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 33.

(9)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 35.

(10)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 115.

(11)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

(12)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

(13)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

 (14)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.156

 (15)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.

 (16)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.174.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Liên kết website